ĐỀ BÀI. Phân tích bài thơ “ Đồng chí”
của Chính Hữu.
BÀI LÀM
Từ lâu,
hình tượng người chiến sĩ quân đội đã đi vào lòng dân và văn chương với tư thế,
tình cảm, phẩm chất đẹp đẽ. Danh từ “ bộ đội Cụ Hồ” đã thành cái tên thân
thương nhất của nhân dân giành cho người chiến sĩ. Viết về đề tài quân đội có
khá nhiều tác giả, nhưng để thành công thì không dễ mấy ai. Riêng nhà thơ,
người chiến sĩ Chính Hữu, bằng cảm xúc của người trong cuộc đã thành công xuất
sắc trong bài “ Đồng chí”. Tác phẩm diễn tả thật cảm động mối tình đồng chí
thiêng liêng và xứng đáng là một bài thơ trữ tình hay trong nền thơ ca VN.
Bài thơ mở đầu bằng những dòng tâm sự. Lời thơ mộc mạc, tự
nhiên như lời ăn , tiếng nóihàngngày:
“Quê hương anh............quen nhau”
Hình
ảnh “quê hương anh”và “ làng tôi” hiện lên bao vất vả, nhọc nhằn , mặc dù nhà
thơ không chú ý miêu tả. Song chính điều đó lại làm cho những hình ảnh vốn chỉ
là những danh từ chung chung trở nên cụ thể, sống động thực đến mức gần như có
thể nhìn thấy được, nhất là đối với đôi mắt của những con người sinh ra từ làng
quê VN. Câu thơ gợi lên sự thông cảm, liên tưởng và những suy nghĩ đồng điệu
của những con người cùng cảnh ngộ, những người nông dân lớn lên từ những miền
quê cơ cực, nghèo khổ, lam lũ, nhọc nhằn. Thành ngữ “ nước mặn , đồng chua” đi
vào câu thơ cũng tự nhiên, giản dị như là cuộc sống gian nan, vất vả kia đã
hiện lên vậy. Và cũng thật giản dị, họ đến bên nhau từ những phương trời cách
biệt, từ những mảnh đời của cùng một đất nước, cùng một hoàn cảnh. Giờ đây sát
cánh cùng nhau trong cuộc đấu tranh giữ nước, hơn bao giờ hết, họ cảm nhận được
sự hòa hợp, gắn bó keo sơn của những con người cùng chung hành động, cùng chung
lí tưởng :
“ Súng ....tri kỉ”
Ngôn ngữ thơ giản dị, câu thơ biểu hiện tư thế của người chiến
sĩ. Nó vừa là bức tranh tả mn bưthực khi
chiến đấu, khi sinh hoạt người lính luôn sát cánh bên nhau vừa mang ý nghĩa
tượng 0xcvftrưng. “ Súng bên súng” là chung hành động, “ đầu sát bên đầu” là
chung lí tưởng. Đây là cội nguồn của sức mạnh. Chính sức mạnh ấy đã giúp họ
cùng nhau chia sẻ mọi gian lao cũng như niềm vui, nỗi buồn : "Đêm rét
chung chăn thành đôi tri kỉ” . Đó là mối tình tri kỉ gắn bó thân thiết của
những người lính cứu quốc. Họ đã biến những cái không thuận lợi của hoàn cảnh để
thành cái thuận lợi cho tình đông chí, đồng đội là chỗ dựa duy nhất để vượt qua
mọi khó khăn.
Đoạn thơ đột ngột đứt ra hai tiếng “Đồng
chí” thành một câu thơ riêng với dấu chấm cảm đi kèm. Hai tiếng “ Đồng chí” đã
chia bài thơ thành hai nửa , nửa trên là quy nạp, nửa dưới là diễn dịch. Chính
Hữu đã tạo ra một kết cấu mới lạ: kết cấu chính luận trong thơ trữ tình. Sau
hai tiếng “ Đồng chí” là một khoảng trống khá lớn như buộc người đọc phải dừng
lại suy nghĩ về tình cảm thiêng liêng mà hai tiếng ấy gợi ra . “ Đồng chí”, hai
tiếng quen thuộc và giản dị bỗng bao ý nghĩa khi đứng giữa bài thơ. Nó như một
nốt nhân nỗi bật trong bản đàn. Nó là sự kết tinh của mọi tình cảm, cảm xúc :
tình đồng chí là biêu hiện cao độ của tình bạn, tình người.
Những
dòng thơ tiếp theo vẫn là những dòng tâm tình mang nặng bâng khuâng, thương nhớ
:
“ Ruộng nương anh........ra lính”
Họ là những người lính gác tình riêng ra đi vì nghĩa lớn, để
lại sau lưng mảnh trời quê hương với những băn khoăn, trăn trở. Từ những câu
thơ nói về gia cảnh, về cảnh ngộ, ta bắt gặp một sự thay đổi lớn lao trong quan
niệm của người chiến sĩ: “Ruộng nương” đã tạm gửi cho “bạn thân cày”, “gian nhà
không" giờ để “mặc kệ gió lung lay”. Câu thơ gợi nhớ biết bao hình ảnh
thân quen, khi đọc lên nghe nhớ nhung, lưu luyến đến nao lòng. Hình ảnh“ Gian
nhà không ....lay” hiện lên thật gợi
cảm. “Gian nhà không”, chữ “không” ở đây được viết rất hay , nó cho ta thấy là
nhà không còn gì khác nữa, nó diễn tả đủ cái nghèo nhưng vẫn ấm áp tình người.
Từ “ mặc kệ” bỗng làm ta liên tưởng đến hình ảnh người chiến sĩ trong bài “ Đất
nước” của Nguyễn Đình Thi:
“ Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”.
“Mặc kệ” hay “ Đầu không ngoảnh lại”
chẳng qua là những cách nói khác nhau nhưng đều biểu lộ một ý chí, một quyêt
tâm muốn vượt lên tình cảm nhớ nhung của người lính. Họ cố dằn lòng, quyết gác
bỏ mọi ràng buộc, quyến luyến thông thường để lên đường chiến đấu.
Hình ảnh “ Giếng nước......ra lính” càng
tô đậm sự gắn bó , yêu thương của người lính đối với quê nhà. Hình ảnh ấy vừa
được sử dụng như một phép hoán dụ ( giếng nước gốc đa biểu hiện cho làng quê),
vừa được sử dụng như một phép nhân hóa ( giếng nước gốc đa biết nhớ nhung con
người), nó diễn tả một cách hồn nhiên, tinh tế tâm hổn người lính. “ Giếng nước.......................................................... ra
lính” hay chính tấm lòng người ra lính không nguôi nhớ quê hương và đã tạo cho
giếng nước gốc đa kia một tâm hồn. Rời bỏ quê hương vào bộ đội, cuộc sống chiến
đấu của các anh vẫn mang đậm dấu ấn của cái nghèo và sự thiểu thốn :
“ Áo .........chân
không giày”
Những câu thơ sóng đôi, đối ứng nhau từng cặp đã diễn tả
những khó khăn ,gian khổ, những thiếu thốn tột cùng của cuộc đời bộ đội. Người
chiến sĩ đã phải trải qua bao khó khăn vất vả, đau đớn, bệnh tật. Chính Hữu bản
thân là một người lính, nên ông đã miêu tả rất thật cái đau đớn của 'căn bệnh
sốt rét : người run lên cầm cập, nóng lên đến 40, 41 độ , đắp bao nhiêu chăn
cũng không thấy đỡ lạnh vậy mà trán thì ướt đẫm mồ hôi. Nhưng đó không phải là
gian khổ duy nhất mà người lính phải trải qua. Họ còn phải chịu đựng cái lạnh
giá, trong khi quân trang, quân phục lại rất thiếu thốn. Vào thời kỳ cuộc kháng
chiến chống Pháp, nước ta thực sự đang rất nghèo nàn, lạc hậu, vũ khí còn rất
thô sơ, không đủ để chiến đấu, huống chỉ là quân trang, quân phục. Bởi vậy mà
người lính phải thường xuyên mặc "áo rách”, "quần vá”, "chân
không giày”. Song tất cả những điều đó cũng không làm họ chùn bước. Họ đã vượt
qua tất cả. Trong gian lao, trong khó khăn, họ vẫn sáng lên nụ cười : “ Miệng
cười buốt giá”. Họ cùng nhau chia sẻ mọi gian lao thiếu thốn và cùng nhau : “
Thương nhau............... ....tay”.
Hình ảnh các chiến sĩ “ Thương nhau.....tay” sao mà thân thương và cảm động.
Bàn tay nóng ấm tình người, sưởi ấm cho nhau trong giá buốt. Cái nắm tay chất
chứa bao tình cảm không lời. Bàn tay nói lời im lặng của sự đoàn kết, gắn bó,
sự cảm thông và lời hứa hẹn lập công. Ở đây, họ nắm tay nhau là truyền cho nhau
thêm sức mạnh để chiến thắng. Nhà thơ
Lưu Quang Vũ đã viết:
“ Phút chia tay anh chẳng nói một lời
Điều chưa nói bàn tay đã nói “
Ba dòng thơ cuối cùng của bài thơ hiện lên một bức tranh cụ
thể và xác thực, giàu hình ảnh và vô cùng gợi cảm . Đó là bức tranh đẹp về tình
đồng chí, một biểu tượng đẹp về cuộc đời người lính:
“ Đêm nay...........trăng treo”.
Hùng vĩ và cảm động làm sao cảnh những người chiến sĩ đứng
cạnh bên nhau chờ giặc tới giữa sương muối đêm rừng giá lạnh, giữa thiên nhiên
hoang vắng và khắc nghiệt: “ Đêm nay...muối”. Chính tình đồng chí, đồng đội đã
sưởi ấm lòng họ, đã xua đi nhũng giá rét của thiên nhiên : “Đứng cạnh ...tới”.
Động từ “chờ” được sử dụng tự nhiên như vẽ ra một diện mạo, một tư thế - cái tư
thế sẵn sàng chủ động tiến công., Người chiến sĩ trong bài thơ chờ giặc tới
nhưng lại thả hồn mình, hướng cái nhìn của mình vê phía vầng trăng. Ánh trăng yên
bình, thơ mộng như xua tan băng giá, như cùng tham gia và chứng kiến tình đồng
chí của các anh. Hình ảnh “ Đầu súng trăng treo” thật là đẹp. Đêm về khuya ,
vầng trăng xé bóng như đang treo trên đầu súng. Đó là một hình ảnh thật song
phải có một hồn thơ giàu chất lãng mạn, giàu trí tưởng tượng, một phong thái
ung dung, bình tĩnh , lạc quan, mới có thể tạo nên một hình ảnh nên thơ như
thế. Hình ảnh “ Đầu súng trăng treo” còn mang ý nghĩa tượng trưng. Súng tượng
trưng cho chiến đấu, trăng là hình ảnh của thanh bình. Súng là con người, trăng
là đất nước quê hương. Súng - hình ảnh người chiến sĩ. Trăng - hình ảnh thi sĩ.
Hai hình ảnh kết hợp hài hòa vừa hiện thực và lãng mạn bay bỗng vừa gợi tả cụ
thể, vừa giàu sức khái quát nói lên lí tưởng chiến đấu, mục đích của cuộc kháng
chiến mà người lính tham gia : chiến đấu cho yên bình, cho ánh trăng mãi mãi
nghiêng trên đỉnh núi. Ấy là biểu tượng thi vị của khát vọng hòa bình. Và nó
cũng biểu hiện được tư thế và tâm hồn của người chiến sĩ : Bình tĩnh, lạc quan,
dũng cảm và lãng mạn.
Viết về người lính, bài thơ “ Đồng chí” có một dáng dấp đặc
biệt: giọng thơ như thủ thỉ tâm tình, bình dị, sâu lắng mà giàu sắc thái gợi
cảm. Hình ảnh mộc mạc, xác thực và giàu chất thơ. Nhưng hơn tất cả bài thơ đã
chinh phục người đọc bằng cảm xúc chân thành, sâu sắc của chính tâm hồn chiến
sĩ, của chính tình đông chí thiêng liêng mà nhà thơ đã từng trải qua.
0 Nhận xét